Kỹ Thuật KNKN
Càng ngày, nông dân và thậm chí cả những người làm vườn ở đô thị và sân sau đang nhận ra rằng cây che phủ rất quan trọng đối với hoạt động và khu vườn của họ.
Cây che phủ có thể được trồng bất kỳ lúc nào trong năm, nhưng thường là sau khi cây trồng chính của bạn đã được thu hoạch.
Cây che phủ bảo vệ chống lại biến đổi khí hậu và cải thiện chất lượng nước
Bên cạnh nhiều lợi ích khác, cây che phủ còn loại bỏ CO2 khỏi khí quyển và giúp đất của bạn có khả năng chống chịu tốt hơn trước biến đổi khí hậu. Chúng dẫn đến khả năng thấm nước và giữ nước trong đất tốt hơn và làm cho đất ít bị xói mòn do gió và nước. Ngoài ra, cây che phủ giữ lại lượng nitơ dư thừa – giữ cho nó không bị rò rỉ vào nước ngầm hoặc chảy vào nước mặt – giải phóng nó sau đó để nuôi cây trồng đang phát triển. Đây là giải pháp đôi bên cùng có lợi, giúp bạn tiết kiệm tiền cho các đầu vào như nước và phân bón, đồng thời giúp cây trồng có khả năng tồn tại tốt hơn trong điều kiện khắc nghiệt.
Môi trường sống của động vật hoang dã và thức ăn gia súc
Ngoài lợi ích cho cây trồng trong tương lai, cây che phủ có thể cung cấp thức ăn mùa đông, nơi che phủ và nơi làm tổ cho chim và các động vật hoang dã khác, cũng như cơ hội tìm kiếm thức ăn cho người chăn nuôi. Trong mùa sinh trưởng, cây che phủ ra hoa có thể cung cấp thức ăn và môi trường sống cho các loài thụ phấn và côn trùng có ích khác. Điều này đặc biệt quan trọng trong môi trường đô thị nơi môi trường sống của động vật hoang dã khan hiếm.
Hình: cây che phủ giúp chống xói mòn đất, cải thiện chất lượng đất và nhiều lợi ích khác
Tăng cường dinh dưỡng cho đất
Cây che phủ có thể tăng hiệu quả dinh dưỡng thông qua giảm xói mòn đất (ít chất hữu cơ trong đất và mất chất dinh dưỡng trong lớp đất mặt). Cây che phủ là tác nhân loại bỏ nitơ dư thừa (N), chuyển đổi N thành protein (enzim, hormone, axit amin). Sự hấp thụ nitơ phụ thuộc vào lượng N của đất, khí hậu, loài cây che phủ, mật độ gieo hạt, ngày trồng và ngày giết. Cây che phủ cỏ mùa đông (ngũ cốc lúa mạch đen, cỏ lúa mạch đen hàng năm) tích lũy N vào mùa thu và mùa đông do rễ phát triển nhanh. Sau giai đoạn khởi động, cỏ không hấp thu thêm nhiều N nữa. Cây họ đậu tích lũy N lâu hơn vào mùa xuân nhưng với đất có N cao thì khả năng cố định N của cây họ giảm. Sử dụng các loài cỏ hoặc cải bắp để hấp thụ và tái chế N nếu lượng N dư thừa từ phân chuồng hoặc phân bón. Sử dụng cây họ đậu để bổ sung N cho vụ sau nếu cần thêm N để bón.
Tăng carbon đất
Cây che phủ có thể làm tăng đáng kể lượng carbon đầu vào vào đất. Giảm việc làm đất cộng với lượng carbon (C) đầu vào từ chất thải làm tăng lượng carbon hữu cơ trong đất. Cả C và N đều cần thiết để hình thành chất hữu cơ trong đất. Cây che phủ cỏ có thể cung cấp N vì cây nhặt rác hoặc cây họ đậu có thể cố định thêm N. Cỏ đóng góp nhiều carbon hơn cây họ đậu do khẩu phần C:N cao hơn. Ở tỷ lệ C:N nhỏ hơn 20, N được giải phóng. Tỷ lệ C:N trung bình trong đất là khoảng 10-12:1 cho thấy N có sẵn. Sinh khối vi sinh vật đất và hoạt động enzyme tăng lên khi sử dụng cây che phủ. Cây che phủ làm tăng SOM, độ xốp vĩ mô, độ thấm của đất, kích thước cốt liệu trung bình và độ ổn định của cốt liệu (cốt liệu vĩ mô so với cốt liệu vi mô). Cây che phủ có rễ sâu làm tăng khả năng giữ nước dưới đất. Đất trống chứa 1,7 inch nước trong khi lớp phủ sống liên tục chứa 4,2 inch nước trong đất. Cấu trúc và độ ổn định của đất tăng lên có thể cải thiện khả năng mang máy móc của đất và cải thiện khả năng tiếp cận hiện trường cũng như giảm độ nén của đất.
Tăng khả năng sinh sản nitơ
Việc giải phóng N từ cây che phủ cho vụ sau vào đúng thời điểm là một vấn đề. Nếu chất dinh dưỡng bị giữ lại hoặc cố định trong đất, năng suất cây trồng có thể giảm, đặc biệt là ở ngô không cày xới. Việc giải phóng N phụ thuộc vào loài cây che phủ, giai đoạn sinh trưởng, cách quản lý và khí hậu. Việc cỏ bị chết vào đầu mùa xuân sẽ thúc đẩy tỷ lệ C:N thấp hơn và giải phóng N nhanh hơn. Cây họ đậu có xu hướng có tỷ lệ C:N thấp hơn nhưng nếu cỏ hoặc cây họ đậu được phép đạt đến độ trưởng thành hoàn toàn thì việc giải phóng N sẽ bị trì hoãn. Sự giải phóng N chậm hơn xảy ra nhiều hơn trong thời tiết khô so với những năm ẩm ướt do hoạt động của vi sinh vật cần thiết để phân hủy dư lượng giảm và giải phóng N. Sự bay hơi N của cây che phủ còn sót lại trên bề mặt đất chỉ có sự thất thoát nhỏ NH3 mà không xảy ra. - cho đến khi. Việc lọc (37%) nitrat vào đất có tác động lớn hơn so với tổn thất do bay hơi (4 đến 6%). Sự hấp thụ N của cây che phủ thay đổi từ 51 đến 270 pound/mẫu Anh (57 đến 296 kg N/ha) cho vụ tiếp theo. Nếu 50% N được tái chế, cây che phủ có thể cung cấp 22 đến 120 pound mỗi mẫu Anh (25 đến 132 kg N/ha) cho vụ tiếp theo. Cây che phủ trồng muộn có thể không có nhiều sinh trưởng nhưng có thể ảnh hưởng đến chất lượng đất và nước thông qua việc giảm xói mòn đất.
Hồng Đinh