Kỹ Thuật KNKN
Vitamin A:
Vitamin tan trong chất béo này rất cần thiết cho thị lực, sinh sản, tăng trưởng và duy trì mô biểu mô và dịch tiết nhầy. Vitamin A được tìm thấy dưới dạng tiền chất carotenoid trong nguyên liệu thực vật xanh và ngô vàng. β-Carotene là dạng hoạt động mạnh nhất của các loại caroten khác nhau. Thật không may, chỉ có khoảng 1/4 tổng lượng carotene trong ngô vàng là ở dạng β-carotene. Các chuyên gia gợi ý rằng đối với heo, 1 mg carotene được xác định bằng phương pháp hóa học trong ngô hoặc hỗn hợp ngô-đậu nành tương đương với 267 IU vitamin A.
Việc sử dụng vitamin A ổn định là phổ biến trong thức ăn công nghiệp và trong các chất bổ sung vitamin hoặc hỗn hợp trộn sẵn. Các chất cô đặc có chứa vitamin A tự nhiên (thường là dầu cá) có thể được sử dụng để củng cố chế độ ăn. Thức ăn xanh, cỏ linh lăng khử nước và cỏ khô chất lượng cao cũng là nguồn cung cấp β-carotene tốt. Cả vitamin A tự nhiên và β-carotene đều dễ dàng bị phá hủy bởi không khí, ánh sáng, nhiệt độ cao, chất béo ôi, axit hữu cơ và một số nguyên tố khoáng chất. Vì những lý do này, có lẽ không nên hoàn toàn dựa vào thức ăn tự nhiên để cung cấp vitamin A, đặc biệt vì vitamin A tổng hợp rất rẻ. Một đơn vị quốc tế vitamin A tương đương với 0,30 mcg retinol hoặc 0,344 mcg retinyl acetate.
Vitamin D:
Loại vitamin tan trong chất béo, chống loãng xương này cần thiết cho sự phát triển và tạo xương thích hợp. Vitamin D tồn tại dưới dạng tiền chất sterol, ergocalciferol (vitamin D2) và cholecalciferol (vitamin D3), được chuyển đổi thành vitamin D hoạt động nhờ bức xạ tia cực tím. Mặc dù heo có thể sử dụng vitamin D2 (sterol thực vật được chiếu xạ) hoặc vitamin D3 (sterol động vật được chiếu xạ), chúng dường như ưu tiên sử dụng D3 hơn. Một số nhu cầu vitamin D có thể được đáp ứng bằng cách cho heo tiếp xúc trực tiếp với ánh nắng mặt trời trong thời gian ngắn mỗi ngày. Nguồn vitamin D bao gồm nấm men được chiếu xạ, cỏ khô phơi nắng, sterol thực vật hoặc động vật được kích hoạt, dầu cá và hỗn hợp vitamin. Đối với vitamin này, 1 IU tương đương với 0,025 mg cholecalciferol. Nhu cầu vitamin D ước tính là 200 IU/kg đối với heo nái đang mang thai và đang cho con bú đã tăng lên 800 IU/kg trong ấn phẩm các chuyên gia năm 2012.
Vitamin E:
Vitamin tan trong chất béo này đóng vai trò như một chất chống oxy hóa tự nhiên trong thức ăn chăn nuôi. Có tám dạng vitamin E tự nhiên, nhưng d-α-tocopherol có hoạt tính sinh học mạnh nhất. Vitamin E cần thiết cho heo ở mọi lứa tuổi và có mối quan hệ chặt chẽ với selen. Nhu cầu vitamin E là 11–16 IU/kg khẩu phần cho heo đang lớn và 44 IU/kg cho heo nái. Một số chuyên gia dinh dưỡng khuyến nghị khẩu phần ăn cao hơn cho heo nái ở vành đai ngô phía đông Hoa Kỳ, nơi hàm lượng selen trong thức ăn có thể thấp. Việc bổ sung vitamin E chỉ có thể khắc phục được một phần tình trạng thiếu hụt selen.
Thức ăn xanh, cỏ khô và bột thô, hạt ngũ cốc và đặc biệt là mầm của hạt ngũ cốc chứa một lượng vitamin E đáng kể. Hoạt tính của vitamin E bị giảm trong thức ăn khi tiếp xúc với nhiệt, điều kiện độ ẩm cao, chất béo ôi, axit hữu cơ và hàm lượng cao của một số nguyên tố vi lượng. Một IU hoạt tính của vitamin E tương đương với 0,67 mg d-α-tocopherol hoặc 1 mg dl-α-tocopherol acetate.
Vitamin K:
Vitamin tan trong chất béo này cần thiết để duy trì quá trình đông máu bình thường. Nhu cầu vitamin K thấp, 0,5 mg/kg thức ăn. Sự tổng hợp vitamin của vi khuẩn và sự hấp thụ sau đó, trực tiếp hoặc bằng quá trình đồng tế bào, nói chung sẽ đáp ứng nhu cầu cho heo. Mặc dù hiếm gặp, xuất huyết đã được báo cáo ở heo sơ sinh cũng như heo đang lớn, vì vậy bổ sung vitamin K được khuyến nghị ở mức 2 mg/kg khẩu phần ăn như một biện pháp phòng ngừa. Nói chung, các vấn đề về xuất huyết có thể bắt nguồn từ việc cho ăn khẩu phần có ngũ cốc bị mốc hoặc các thành phần khác có chứa nấm mốc.
Riboflavin:
Vitamin tan trong nước này là thành phần của hai hệ thống enzyme quan trọng liên quan đến chuyển hóa carbohydrate, protein và chất béo. Khẩu phần ăn của heo thường thiếu vitamin này và dạng tinh thể được đưa vào premix. Các nguồn tự nhiên bao gồm thức ăn thô xanh, các sản phẩm phụ từ sữa, men bia, bột đậu và một số sản phẩm phụ lên men và chưng cất.
Niacin (axit Nicotinic):
Niacin là một thành phần của coenzym tham gia vào quá trình chuyển hóa carbohydrate, chất béo và protein. Heo có thể chuyển hóa lượng tryptophan dư thừa thành niacin nhưng quá trình chuyển đổi này không hiệu quả. Niacin trong hầu hết các loại ngũ cốc hoàn toàn không được heo sử dụng. Khẩu phần ăn của heo thường thiếu vitamin này và dạng tinh thể được đưa vào premix. Các nguồn niacin tự nhiên bao gồm cá và các sản phẩm phụ từ động vật, men bia và các chất hòa tan trong quá trình chưng cất. Dựa trên nghiên cứu gần đây, các chuyên gia đã tăng yêu cầu niacin lên 30 ppm trong tất cả các giai đoạn tăng trưởng.
Axit Pantothenic:
Vitamin này là thành phần của coenzym A, một enzym quan trọng trong chuyển hóa năng lượng. Khẩu phần ăn của heo bị thiếu vitamin này và muối tinh thể, d-canxi pantothenate, được đưa vào hỗn hợp vitamin. Các nguồn axit pantothenic tự nhiên bao gồm thức ăn xanh, bột đậu, các sản phẩm từ sữa, men bia, chất hòa tan từ cá và một số sản phẩm phụ khác.
Vitamin B12:
Vitamin này, còn được gọi là cyanocobalamin, chứa coban và có nhiều chức năng trao đổi chất quan trọng. Thức ăn có nguồn gốc thực vật không có vitamin này, nhưng các sản phẩm động vật là nguồn tốt. Mặc dù có một số quá trình tổng hợp vitamin này trong ruột, nhưng vitamin B12 thường được đưa vào hỗn hợp vitamin dành cho heo.
Thiamin:
Vitamin này có vai trò quan trọng trong cơ thể, nhưng nó ít có ý nghĩa thực tế đối với heo vì ngũ cốc và các nguyên liệu thức ăn khác cung cấp lượng dồi dào để đáp ứng nhu cầu của heo.
Sinh tố B6:
Một nhóm các hợp chất gọi là pyridoxine có hoạt tính vitamin B6 và rất quan trọng trong quá trình chuyển hóa axit amin. Chúng hiện diện với số lượng dồi dào trong các nguyên liệu thức ăn tự nhiên thường được cho heo ăn. Yêu cầu về vitamin B6 ở heo con (5–25 kg) đã tăng gấp 3–4 lần trong ấn phẩm các chuyên gia năm 2012 so với ấn bản trước đó.
Hình: vai trò của vitamin trong khẩu phần ăn của heo (ảnh sưu tầm)
Cholin:
Choline cần thiết cho hoạt động bình thường của tất cả các mô. Heo có thể tổng hợp một số choline từ methionine trong khẩu phần ăn. Có đủ choline trong các thành phần khẩu phần tự nhiên để đáp ứng yêu cầu của heo đang phát triển. Tuy nhiên, trong một số nghiên cứu, bổ sung choline ở mức 440–800 mg/kg khẩu phần đã làm tăng kích thước lứa đẻ ở heo nái và heo nái. Các nguồn choline tự nhiên bao gồm các chất hòa tan trong cá, bột cá, bột đậu nành, bột gan, men bia và bột thịt. Choline clorua, chứa 75% choline, là dạng choline bổ sung phổ biến được sử dụng trong thức ăn chăn nuôi. Nếu choline được bổ sung vào khẩu phần ăn của heo nái thì không nên kết hợp với các vitamin khác trong premix, đặc biệt nếu có mặt các khoáng chất vi lượng, vì choline clorua có tính hút ẩm và phá hủy một số hoạt động của vitamin A và các vitamin kém ổn định khác.
Biotin:
Vitamin này hiện diện ở dạng sẵn có cao trong bột ngô và đậu nành, nhưng biotin trong lúa miến, yến mạch, lúa mạch và lúa mì thì ít được heo sử dụng. Có bằng chứng cho thấy khi những loại ngũ cốc sau này được cho heo ăn, đặc biệt là vật nuôi giống, biotin có thể bị thiếu hụt hoặc thiếu hụt. Hiệu suất sinh sản ở heo nái đã được cải thiện khi bổ sung biotin. Mặc dù chưa rõ ràng nhưng có bằng chứng cho thấy hiệu suất sinh sản cũng được cải thiện khi bổ sung biotin vào chế độ ăn bột ngô-đậu nành. Trong một số trường hợp, việc bổ sung biotin làm giảm tổn thương bàn chân ở heo trưởng thành. Để đảm bảo an toàn, nên bổ sung biotin, đặc biệt là đối với khẩu phần của heo nái. Không nên cho heo ăn trứng sống vì lòng trắng trứng có chứa avidin, một loại protein tạo phức với biotin và khiến nó không thể sử dụng được.
Folacin:
Nhóm hợp chất này có hoạt tính axit folic. Folacin có đủ trong thức ăn tự nhiên để đáp ứng nhu cầu tăng trưởng, nhưng một số nghiên cứu đã cho thấy lợi ích về kích thước lứa đẻ khi axit folic được thêm vào khẩu phần của heo nái.
Axit ascorbic (Vitamin C):
Heo được cho là có khả năng tổng hợp vitamin này với tốc độ đủ nhanh để đáp ứng nhu cầu của chúng trong điều kiện bình thường. Tuy nhiên, một số nghiên cứu đã cho thấy lợi ích về năng suất của heo cai sữa sớm trong điều kiện căng thẳng khi bổ sung vitamin này vào khẩu phần ăn.
Trang Nguyễn