Kỹ Thuật KNKN
Để chuẩn bị con giống thả nuôi trên diện tích 1ha, ông Long sử dụng bể xi măng có diện tích khoảng hơn 700m2 để ương dưỡng 900.000 con giống tôm thẻ chân trắng post 10. Hiện nay mới vào giai đoạn giữa kỳ ương dưỡng nhưng tôm đã lớn rất nhanh, ăn mồi rất mạnh. Theo ông Long, số lượng con giống này sau khi ương dưỡng trong bể đến 25 ngày tuổi sẽ đạt đến trọng lượng 2000con/kg, khi đó mới thả ra ngoài ao nuôi. "Lúc này con tôm đủ lớn có khả năng chịu đựng với sự thay đổi bất lợi của môi trường ao nuôi, hạn chế tỉ lệ hao hụt con giống" ông Long nói. Với cách làm như trên, ông Long tính toán lượng tôm giống qua các lần ương dưỡng trước đây chưa lần nào hao hụt đến 5%.
Được biết, hiện nay phần lớn người nuôi tôm thẻ chân trắng sử dụng con giống từ post 10 – 15 thả trực tiếp vào ao nuôi nên tỉ lệ hao hụt rất cao. Ông Long cho biết, nuôi theo quy trình này, khi thả giống phải hồi họp chờ đợi đến khoảng 1 tháng sau lúc tôm vào nhá mới biết được tỉ lệ tôm sống có đạt hay không. Bởi giai đoạn này tôm còn nhỏ, khả năng chống chịu với sự biến đổi môi trường chưa tốt nên dễ bị chết "Giai đoạn này tỉ lệ hao hụt đến gần 20%" ông Long cho bết thêm. Với số lượng hao hụt như trên chỉ tính riêng chi phí tiền mua giống trên diện tích 1ha, người nuôi bị thiệt hại khoảng 15 triệu đồng.
Ương dưỡng tôm giống
Ngoài ra, chi phí xử lý môi trường trong bể ương cũng thấp hơn rất nhiều so với ngoài ao nuôi, ông Long tính toán, nếu trên diện tích 1ha chi phí xử lý để ổn định độ kiềm và pH trong giai đoạn đầu (25 ngày đầu) thả giống mất khoảng khoảng 20 triệu đồng. Trong khi đó chi phí này trong bể ương dưỡng chỉ mất khoảng chưa đến 2 triệu đồng. Lý giải về việc này, các kỹ sư của Trung tâm Khuyến nông – Khuyến ngư cho biết, do môi trường ao nuôi có nền đáy bằng đất dễ xảy ra hiện tượng xì phèn cùng với nhiều tác động khác (mưa, nhiệt độ chênh lệch giữa ngày và đêm lớn) làm môi trường luôn biến động, hơn nữa do khối lượng nước lớn nên chi phí xử lý ổn định môi trường luôn cao hơn trong bể.
Tuy nhiên, việc ương dưỡng trong bể cũng có nhược điểm là mật độ tôm ương cũng rất cao do đó cần phải cung cấp đủ lượng oxy cần thiết để tôm phát triển tốt. Ông Long cho biết, nên sử dụng hệ thống oxy đáy (sục khí từ đáy ao), vì giai đoạn này tôm còn nhỏ chủ yếu phân bố ở tầng đáy. Theo quy trình của ông Long trên diện tích 700m2 ông sử dụng 15 vỉ sục khí đáy. Vỉ sục khí được sử dụng các ống hơi khoanh tròn xoắn ốc có đường kích 47cm thả chìm xuống đáy ao.
Trên mặt bể được che chắn toàn bộ bằng lưới phong lan (lưới dùng che khi trồng hoa phong lan). Theo ông Long, việc che chắn này để nhằm mục đích không cho chim trời, cua, ếch, nhái… tiếp cận với ao ương hạn chế việc lây truyền mầm bệnh từ môi trường bên ngoài. "Lưới lan cũng giúp hạn chế ánh nắng mặt trời rọi trực tiếp vào bể, hạn chế sự phát triển của tảo giúp cho môi trường bể ương luôn ổn định, tôm phát triển nhanh" ông Long nói
Trần Ân Phong