Danh Mục

ban Biên tập

Video Tư Liệu kỹ Thuật

Thông Tin Thời Tiết

Thống Kê Truy Cập

Tổng số lượt truy cập: 15151820
Số người đang truy cập: 14

Kỹ Thuật KNKN

Nguyên liệu làm thức ăn chính của heo

Nguyên tắc cơ bản của kinh tế sản xuất thịt heo là sử dụng các loại ngũ cốc tiết kiệm nhất và khắc phục những thiếu sót bằng cách bổ sung các nguồn protein, khoáng chất và vitamin chất lượng tốt. Các hỗn hợp khoáng chất và vitamin đáng tin cậy hoặc các chất bổ sung được sản xuất hoàn chỉnh đều có sẵn trên thị trường.

Khẩu phần ăn từ bắp-khô đậu nành tăng cường rất phổ biến ở các trang trại chăn nuôi heo, nhưng cũng có thể sử dụng các nguồn ngũ cốc và protein khác.

Bắp (bắp) cho đến nay là loại ngũ cốc được sử dụng rộng rãi nhất để làm thức ăn cho heo. Nó rất ngon miệng và giàu năng lượng nhưng lại có hàm lượng protein thô tương đối thấp. Ngoài ra, bắp còn thiếu lysine, tryptophan, threonine và một số axit amin thiết yếu khác cũng như vitamin và khoáng chất.

Lúa miến là nguồn năng lượng chính cho heo. Hàm lượng protein thay đổi tùy thuộc vào các yếu tố như giống, cây trồng được trồng trên đất khô hay đất được tưới tiêu, lượng phân bón được sử dụng và các yếu tố môi trường khác. Nhìn chung, lúa miến có thể được thay thế cho bắp với trọng lượng tương đương, nhưng do giá trị ME thấp hơn một chút so với bắp nên khả năng chuyển đổi thức ăn kém hơn.

Lúa mì có hàm lượng năng lượng tương đương với bắp và chứa nhiều protein hơn 2%–3% và nhiều lysine hơn 0,05%–0,1% so với bắp. Lúa mì có thể được thay thế cho bắp trên cơ sở trọng lượng tương đương hoặc trên cơ sở lysine, nhưng không được thay thế trên cơ sở protein thô nếu không sẽ dẫn đến thiếu lysine. Lúa mì có thể là tất cả các loại ngũ cốc trong khẩu phần ăn của heo.

Lúa mạch có ~85%–90% giá trị dinh dưỡng của bắp, mặc dù nó thường chứa nhiều protein hơn 2%–3%. Lúa mạch ghẻ không nên cho heo ăn.

Yến mạch có hàm lượng năng lượng tương đối thấp và do đó không nên chiếm >20%–25% lượng hạt ngũ cốc trong khẩu phần ăn. Nói chung, khi yến mạch được đưa vào chế độ ăn uống, tốc độ và hiệu quả tăng cân dự kiến sẽ giảm. Yến mạch dạng tấm đôi khi được sử dụng trong khẩu phần ăn ban đầu vì tính ngon miệng tuyệt vời của chúng.

Hình: Nguyên liệu làm thức ăn chính cho heo (ảnh sưu tầm)

Các loại ngũ cốc nên được nghiền hoặc cán để tối đa hóa giá trị dinh dưỡng của chúng. Bắp và lúa miến nên được giảm xuống kích thước hạt trung bình (550–600 micron). Lúa mì nên được nghiền thô hơn (650–700 micron) để tránh bị nhão. Nghiền mịn cải thiện khả năng chuyển đổi thức ăn, nhưng việc giảm kích thước hạt quá mức có thể dẫn đến tăng tỷ lệ loét dạ dày. Việc chia nhỏ khẩu phần có thể dẫn đến một sự cải thiện nhỏ về tăng trọng và đặc biệt là hiệu quả sử dụng thức ăn. Nhìn chung, lợi ích lớn nhất là chế độ ăn dạng viên có chứa hàm lượng chất xơ cao, chẳng hạn như chế độ ăn dựa trên lúa mạch. Ngũ cốc phải càng không có độc tố nấm mốc càng tốt. Aflatoxin, vomitoxin, zearalenone, fumonisins và các độc tố nấm mốc khác có thể làm giảm hiệu suất của vật nuôi, tùy thuộc vào mức độ trong thức ăn và đặc biệt có thể gây ra các vấn đề về sinh sản ở vật nuôi giống.

Bã đậu nành chiếm >90% lượng protein bổ sung cho heo ở Hoa Kỳ. Nó rất ngon miệng và có hàm lượng axit amin tuyệt vời bổ sung cho mẫu axit amin trong hạt ngũ cốc. Đậu nành xay, đầy đủ chất béo cũng có thể được cho heo ăn nhưng chỉ sau khi chúng được đun nóng (bằng cách ép đùn hoặc rang) để làm bất hoạt các chất ức chế trypsin và các yếu tố kháng dinh dưỡng không bền với nhiệt khác.

Bột cải dầu cũng là một nguồn protein tuyệt vời. Bột hạt bông có hàm lượng gossypol thấp (< 100 ppm gossypol tự do), bột đậu phộng, bột hướng dương và các loại bột có nguồn gốc từ hạt có dầu khác có thể được sử dụng trong thức ăn cho heo nhưng nhìn chung không phải là nguồn protein bổ sung duy nhất vì hàm lượng lysine trong protein của chúng thấp hơn. Các nguồn protein động vật như bột thịt, bột thịt xương hoặc bột cá có thể cung cấp một phần protein bổ sung trong khẩu phần ăn của heo.

Máy chưng cất ngũ cốc sấy khô có chất hòa tan (DDGS) là sản phẩm phụ nhận được rất nhiều sự chú ý trong những năm gần đây do số lượng các nhà máy sản xuất ethanol sử dụng bắp để sản xuất ethanol làm nhiên liệu ngày càng tăng. Sản phẩm phụ này là một nguyên liệu thức ăn tuyệt vời và tiết kiệm cho heo. Mặc dù DDGS về cơ bản không có tinh bột và nhiều chất xơ hơn bắp nhưng lại có hàm lượng chất béo (dầu bắp) cao hơn đáng kể; do đó, hàm lượng ME của DDGS chứa 9%–12% chất béo tương tự như bắp.

Gần đây, một số nhà máy sản xuất ethanol chiết xuất một phần dầu từ chất hòa tan trước khi bổ sung chất hòa tan vào hạt khô. Điều này dẫn đến DDGS "ít béo", thường có 5%–9% chất béo, có ME ít hơn một chút so với DDGS thông thường. Việc loại bỏ thêm chất béo, được gọi là "DDGS đã loại dầu" (< 5% chất béo) có ME ít hơn đáng kể so với các loại DDGS khác, do đó nó có giá trị dinh dưỡng thấp hơn. DDGS cũng có hàm lượng protein cao hơn bắp nhưng chất lượng protein (tức là sự cân bằng của các axit amin), giống như protein bắp, lại kém.

Một số lượng đáng kể nghiên cứu đã được thực hiện với DDGS trong những năm gần đây. Khẩu phần chứa 20%–25% DDGS được heo sử dụng tốt, nhưng khi ở mức cao (>30%) DDGS được cho ăn trong khẩu phần hoàn thiện, mỡ trong cơ thể heo trở nên không bão hòa hơn, bằng chứng là giá trị iốt cao hơn. Điều này dẫn đến phần bụng mềm hơn, dẻo hơn và khó chế biến thành các lát thịt xông khói hơn. Để khắc phục vấn đề này, người sản xuất nên xem xét loại bỏ DDGS khỏi khẩu phần hoàn thiện muộn hoặc giảm mức DDGS xuống 10% trong 3-4 tuần cuối cùng của giai đoạn hoàn thiện.

Lê Đào