Danh Mục

ban Biên tập

Video Tư Liệu kỹ Thuật

Thông Tin Thời Tiết

Thống Kê Truy Cập

Tổng số lượt truy cập: 15172091
Số người đang truy cập: 20

Kỹ Thuật KNKN

NHỮNG ỨNG DỤNG CƠ BẢN CỦA CHẤT ĐIỀU HOÀ SINH TRƯỞNG (ĐHST) THỰC VẬT TRONG NÔNG NGHIỆP (Phần 1)
Đây là lĩnh vực được ứng dụng phổ biến và quan trọng nhất của chất điều hòa sinh trưởng.

1.    Kích thích nhanh sự sinh trưởng của cây, tăng chiều cao, tăng sinh khối

Đây là lĩnh vực được ứng dụng phổ biến và quan trọng nhất của chất điều hòa sinh trưởng. Với những cây trồng cần chiều cao như cây lấy sợi, cây mía… thì sử dụng GA đều đạt được mục đích. Phun dung dịch GA nồng độ 20 – 50 ppm có thể làm chiều cao cây đay tăng gấp 2 lần. Phun GA cho mía cũng làm tăng chiều dài lóng và tăng sản lượng rõ rệt. Đối với các cây bị đột biến lùn, xử lý GA làm cây cao bình thường.

Làm tăng kích thước quả

Với các cây rau, việc tăng sinh khối có ý nghĩa rất quan trọng vì làm tăng sản lượng nông sản thu hoạch. Để đạt được mục đích này thường sử dụng các chất kích thích tăng trưởng Auxin và GA. Phun dung dịch Auxin hoặc GA cho các loại rau an lá đều làm tăng năng suất rất nhiều so với đối chứng. Một thí nghiệm ở TP. HCM, phun GA nồng độ 20 pmm hai lần vào ngày thứ 7 và ngày thứ 14 sau khi trồng, năng suất rau xà lách đạt 35 tấn/ha, tăng hơn không phun tới 10 tấn. Với cây rau cải ngọt cũng cho kết quả tương tự.

2.    Tăng kích thước và năng suất quả

Đây là hướng ứng dụng rất quan trọng đối với các cây ăn quả. Đối với cây nho, việc xử lý GA là biện pháp phổ biến ở nhiều nước để làm tăng năng suất và phẩm chất nho. Ở Mỹ và Nhật từ năm 1952 đã bắt đầu dùng GA trong nghể trồng nho. Sử dụng chất ADHS (Alar) cho nho, táo cũng có hiệu quả tăng năng suất rõ rệt.

3.    Kích thích sự ra rễ phụ của cành giâm, cành chiết

Hướng này được ứng dụng vào việc nhân giống vô tính cây trồng. Nhiều nhà khoa học đã tập trung nghiên cứu cơ sở sinh lý của sự tái sinh rễ phụ và ứng dụng vào việc nhân giống vô tính nhiều loại cây ăn quả, cây công nghiệp, cây cảnh, cây làm thuốc. Chất điều hòa sinh trưởng có hiệu quả cao và thường sử dụng để kích thích ra rễ là các Auxin như NAA, AIB, 2,4D… Nồng độ xử lý tùy thuộc vào phương pháp xử lý, vào đối tượng cây trồng va mùa vụ xử lý.

Đối với cành giâm có 3 phương pháp xử lý chính là phương pháp nhúng nhanh gốc cành giâm trong dung dịch kích thích ra rễ có nồng độ cao (khoảng 1.000 – 10.000 ppm) trong 3-5 giây rồi cắm vào giá thể, phương pháp ngâm lâu gốc cành giâm trong dung dịch loãng (từ vài chục đến vài trăm ppm) trong 12 – 24 giờ và phương pháp phun lên lá thay cho xử lý cành giâm. Phương pháp xử lý nhanh trong nồng độ đặc thường cho hiệu quả cao hơn cả với hầu hết các đối tượng cành giâm.

Auxinc cũng thường được sử dụng kích thích ra rễ cho cành chiết bằng cách xử lý nồng độ cao (xử lý nhanh) và xử lý nồng độ thấp (xử lý chậm) giống như với cành guam6. Có thể pha dung dịch với nồng độ cao rồi bôi lên chổ khoanh vỏ. Cũng có thể pha nồng độ loãng rồi trộn vào bầu chiết.

4.    Điều khiển sự ngủ nghỉ của cơ quan thực vật

Người ta đã sử dụng chất điều hòa sinh trưởng thực vật để phá bỏ hoặc kéo dài thời gian ngủ nghỉ của hạt, củ và căn hành tùy theo mục đích của mình.

Để phá bỏ trạng thái ngủ nghỉ thường sử dụng chất GA. Khi xâm nhập vào cơ quan đang ngủ nghỉ, GA sẽ làm mất cân bằng hormon lệch về phía thuận lợi cho sự nảy mầm. Việc phá ngủ nghỉ của củ khoai tây mới thu hoạch bằng GA đã d9uov75 ứng dụng từ khá lâu ở nhiều nước và ở nước ta. Trường Đại học Nông nghiệp I ở Hà Nội đã nghiên cứu thành công biện pháp phá ngủ nghỉ cho củ khoai tây thu hoạch vụ đông xuân để có mầm kịp trồng ở vụ Xuân bằng phun dung dịch GA. Kết quả nảy mầm hạt trên 90% trong 5 – 7 ngày.  Nếu xử lý GA kết hợp với nhiệt độ thấp (7 – 100C) thì có thể phá ngủ nghỉ cho bất kỳ đối tượng ngủ nghỉ nào.

Trong kho bảo quản, nhiều trường hợp lại cần phải kéo dài thời gian ngủ nghỉ. Để kìm hãm sự nảy mầm của củ khoai tây người ta xử lý chất IPCC (Isopropyl chlorocar – baminate), MH hoặc MENA (Methyl ester của NAA). Để bảo quản hành tỏi chống tóp và chống nảy mầm, ngjuoi72 ta xử lý MH ở nồng độ 500 – 2500 ppm.