Danh Mục

ban Biên tập

Video Tư Liệu kỹ Thuật

Thông Tin Thời Tiết

Thống Kê Truy Cập

Tổng số lượt truy cập: 15430953
Số người đang truy cập: 7

Kỹ Thuật KNKN

Các phương pháp tiếp cận hiện đại trong việc tăng cường kẻ thù tự nhiên trong kiểm soát sinh học
Kiểm soát sinh học là một môn khoa học thú vị vì nó liên tục kết hợp những kiến thức và kỹ thuật mới. Nhập khẩu, tăng cường và bảo tồn thiên địch tạo thành ba phương pháp cơ bản để kiểm soát sinh học côn trùng. Các kỹ thuật cụ thể trong các phương pháp này liên tục được phát triển và điều chỉnh để đáp ứng nhu cầu thay đổi về quản lý dịch hại.

Những cải tiến trong kỹ thuật nuôi và phóng thích cũng như cải tiến di truyền của thiên địch đã mang lại kết quả là các chương trình nhân giống hiệu quả hơn. Việc áp dụng lý thuyết sinh thái mới đang làm thay đổi cách chúng ta nhìn nhận việc bảo tồn thiên địch. Tiếp tục sàng lọc và điều chỉnh các phương pháp và ứng dụng kiểm soát sinh học là cần thiết nếu muốn phát huy hết tiềm năng của chiến lược quản lý dịch hại dựa trên sinh học này.

Bởi vì hầu hết việc tăng cường đều liên quan đến việc sản xuất hàng loạt và định kỳ xâm chiếm các loài thiên địch nên loại hình kiểm soát sinh học này đã có lợi cho sự phát triển thương mại. Trên thế giới, đã có hàng trăm sản phẩm kiểm soát sinh học có sẵn trên thị trường đối với hàng chục loài gây hại không xương sống, động vật có xương sống, cỏ dại và mầm bệnh thực vật (Anonymous 1995).

Việc thực hành tăng cường khác với nhập khẩu và bảo tồn ở chỗ việc tạo ra những thay đổi lâu dài trong hệ sinh thái nông nghiệp để cải thiện kiểm soát sinh học không phải là mục tiêu chính. Đúng hơn, việc tăng cường thường tìm cách điều chỉnh các thiên địch để phù hợp với các hệ thống sản xuất hiện có. Ví dụ, nuôi cấy loài ve săn mồi Metaseiulus occidentalis (Nesbitt) đã được chọn lọc trong phòng thí nghiệm để kháng thuốc trừ sâu thường được sử dụng trong chương trình quản lý bọ ve tổng hợp ở vườn hạnh nhân California (Hoy 1985). Chương trình này đã tiết kiệm cho người trồng từ 24 đến 44 USD/mẫu Anh mỗi năm nhờ giảm việc sử dụng thuốc trừ sâu và giảm năng suất (Headley & Hoy 1987). Sự cải thiện di truyền của một số loài săn mồi và ký sinh đã được thực hiện bằng các phương pháp chọn lọc truyền thống (Hoy 1992), và dường như có thể thực hiện được bằng công nghệ DNA tái tổ hợp.

Một ví dụ tuyệt vời về phương pháp tăng cường đã được áp dụng thành công cho nhiều hệ thống nông nghiệp khác nhau là thả ong bắp cày Trichogramma tràn lan. Những nội ký sinh nhỏ này của trứng côn trùng được phóng thích vào cây trồng hoặc rừng với số lượng lớn (lên tới vài triệu/ha) tùy theo thời điểm có sự xuất hiện của trứng sâu bệnh. Trichogramma là loài thiên địch được gia tăng rộng rãi nhất, đã được sản xuất hàng loạt và thả ra đồng ruộng trong gần 70 năm qua trong các nỗ lực kiểm soát sinh học. Trên toàn thế giới, hơn 32 triệu ha cây nông nghiệp và rừng được xử lý hàng năm bằng Trichogramma spp. ở 19 quốc gia, chủ yếu ở Trung Quốc và các nước cộng hòa thuộc Liên Xô cũ (Li 1994).

Thực hành tăng cường thiên địch sẽ tạo ra những thay đổi lâu dài trong hệ sinh thái nông nghiệp. Hình nhện sói một kẻ thù tự nhiên

Ở Trung Quốc, hệ thống sản xuất nông nghiệp và quản lý dịch hại tận dụng chi phí lao động thấp và thường tuân theo các quy trình có tính đổi mới cao nhưng đơn giản về mặt công nghệ. Ví dụ: Trichogramma spp. được thả ồ ạt để ngăn chặn sâu đục thân Chilo spp., quần thể trong cây mía được bảo vệ khỏi mưa và các loài săn mồi bên trong các gói xuất hiện. Trứng ký sinh do côn trùng nuôi được bọc trong các phần lá rồi dùng tay trượt trên các lá mía. Hầu hết hoạt động sản xuất Trichogramma ở Trung Quốc diễn ra tại các cơ sở sản xuất nguyên liệu cho một khu vực địa phương. Những cơ sở này bao gồm từ các cơ sở nuôi côn trùng ngoài trời đến các cơ sở cơ giới hóa đang dẫn đầu thế giới trong việc phát triển trứng vật chủ nhân tạo.

Một trong những rào cản đối với việc thực hiện rộng rãi biện pháp kiểm soát sinh học trong nông nghiệp phương Tây là kinh tế xã hội (van Lenteren 1990). Trong các hệ thống nông nghiệp sản xuất quy mô lớn hiện nay, tính hiệu quả và tính kinh tế theo quy mô được đặt lên hàng đầu. Toàn bộ ngành công nghiệp hỗ trợ đã phát triển xung quanh việc ứng dụng hóa chất nông nghiệp, bao gồm sản xuất, phân phối và bán thiết bị ứng dụng cũng như các dịch vụ ứng dụng. Để các sản phẩm phòng trừ sinh học không xung đột với các ngành này và cạnh tranh mạnh mẽ với thuốc trừ sâu thì chúng phải có nhiều đặc điểm giống nhau. Lý tưởng nhất là chúng phải có hiệu quả tương đương với thuốc trừ sâu, có hoạt tính tồn dư, dễ sử dụng và có khả năng áp dụng nhanh chóng trên quy mô lớn bằng các thiết bị ứng dụng thông thường.

Ở Tây Âu, gần hai thập kỷ nghiên cứu chuyên sâu đã dẫn đến việc tiếp thị thương mại ba sản phẩm sử dụng loài Trichogramma Brassicae Bezdenko có nguồn gốc từ châu Âu, để ngăn chặn sâu đục thân ngô châu Âu, Ostrina nubilalis Hübner, trên các cánh đồng ngô (Bigler et al. 1989). Các sản phẩm này được áp dụng hàng năm cho khoảng 7.000 ha ở Thụy Sĩ và Đức, 150 ha ở Áo và 15.000 ha ở Pháp. Cả ba sản phẩm đều dựa trên các gói nhựa hoặc giấy được sản xuất nhằm bảo vệ ong bắp cày trước các điều kiện thời tiết khắc nghiệt và bị săn mồi cho đến khi xuất hiện trên đồng ruộng.

Như trong ví dụ của Trung Quốc ở trên, các sản phẩm Trichogramma của Châu Âu phần lớn được áp dụng thủ công trên các cánh đồng trồng trọt. Một ngoại lệ là sản phẩm có tên Trichocaps có thể được phát sóng bằng tay hoặc bằng máy bay sử dụng thiết bị ứng dụng thông thường. Các gói Trichocaps thực chất là những viên nang bằng bìa cứng hình quả óc chó rỗng (đường kính 2 cm), mỗi gói chứa khoảng 500 con sâu bướm Địa Trung Hải ký sinh, Ephestia kuehniella Zwolfer, trứng (Kabiri et al. 1990). Trichogramma đang phát triển bên trong viên nang được chuyển sang trạng thái đông (tạm dừng) trong chuồng côn trùng, sau đó được bảo quản trong điều kiện lạnh đến chín tháng mà không bị giảm chất lượng. Hệ thống này cho phép sản xuất sản phẩm trong những tháng mùa đông, sau đó phân phối cho người trồng khi cần thiết vào mùa hè.

Sau khi lấy ra khỏi kho lạnh, Trichogramma bên trong viên nang sẽ bắt đầu phát triển và bắt đầu xuất hiện ở nhiệt độ khoảng 100 độ C vài ngày sau đó. Quá trình 'kích hoạt lại' này có thể được điều khiển để các viên nang chứa Trichogramma ở các giai đoạn phát triển khác nhau có thể được áp dụng cho các cánh đồng cùng một lúc, kéo dài thời gian xuất hiện của ký sinh trùng và tăng hoạt động 'dư lượng' của một ứng dụng duy nhất lên khoảng một tuần. Việc lập kế hoạch và chuẩn bị sản phẩm để ứng dụng do công ty thực hiện nên người trồng chỉ chịu trách nhiệm áp dụng sản phẩm trên ruộng trồng trọt.

Nghiên cứu hợp tác trong 5 năm qua (giữa BIOTOP, Pioneer Hi-Bred Intl., BASF, Univ. of Illinois, Iowa State University, Michigan State University, Purdue University, và Pest Management Co. of Nebraska) đã mang lại kết quả thương mại thành công- thử nghiệm thí điểm quy mô của phương pháp này ở Bắc Mỹ trên ngô hạt và hệ thống sản xuất ngô ngoài đồng (Orr 1993, Orr và cộng sự, dữ liệu chưa được công bố). Chiến lược này hiện có tiềm năng triển khai thương mại ngay lập tức ở Bắc Mỹ.

Trần Long