Danh Mục

ban Biên tập

Video Tư Liệu kỹ Thuật

Thông Tin Thời Tiết

Thống Kê Truy Cập

Tổng số lượt truy cập: 15454491
Số người đang truy cập: 24

Kỹ Thuật KNKN

Quản lý côn trùng và sâu gây hại trên cây mía

Sâu đục chồi sớm

Sâu đục thân gây hại sớm có thể gây thiệt hại lên tới 35%. Trong giai đoạn sinh trưởng ban đầu của cây trồng, trước khi hình thành lóng, sâu bệnh tấn công cây trồng. Khi tim chết bị nghiền nát, phần đáy của tim chết sẽ bị thối rữa và phát ra mùi hôi khó chịu. Ngay sau khi sâu bệnh giết chết một chồi, nó sẽ di chuyển sang chồi khác. Trong những năm ít mưa, cây trồng dễ bị sâu bệnh tấn công khi nhiệt độ vẫn cao và độ ẩm tương đối thấp.

Kiểm soát sinh học

Nên bón virus Granulosis 1,5 x 135 IBS/ha hai lần trên DAP 35 và 50 và teepol.

Ruồi ký sinh thuộc giống Tachinid, con cái mang thai Sturmiopsis inferens nên được thả với mật độ 310 con/ha.

Phương pháp hoá học

Hỗn hợp carboryl và sevidol 4% G (12,5 kg) và carbofuron 3% G (32,5 kg) được dùng cho các ứng dụng trong đất. Sau khi bón phân dạng hạt và tưới nước là điều cần thiết càng sớm càng tốt. Để có kết quả tốt nhất nên dùng bình phun dung tích lớn kết hợp với chlorpyriphos 1000 ml và miếng dán như Teepol (250 ml/500 lít nước) để đảm bảo dung dịch bám dính trên bề mặt cây trồng.

Sâu đục thân gây hại

Các loài côn trùng đục thân, chẳng hạn như sâu đục thân, là những loài gây hại nghiêm trọng cho Mía, ngô và lúa miến. Sâu bướm của nó gây hại cho cây bằng cách đào hầm bên trong thân cây. Ngay khi ăn lá non của vật chủ, sâu đục thân mía gây hại cho vật chủ. Sâu đục thân mía có thân màu nâu vàng, sải cánh từ 24 đến 36 mm.

Hình: sâu đục thân gay hại trên cây mía (Ảnh Internet)

Những chiếc lá non, cuộn chặt sẽ bị những loài côn trùng này ăn, dẫn đến những "lỗ bắn" nhỏ, rải rác trên lá khi chúng bung ra. Bề mặt lá cũng có thể biến thành những ô cửa sổ nhỏ, trong suốt khi sâu bướm ăn trên bề mặt lá. Sau khi ăn các điểm sinh trưởng của cây, sâu bướm tạo ra những trái tim chết (những lá non nhất chưa nở ra sẽ héo và chết).

Kiểm soát sinh học

Trichogramma chilonis được thả hai tuần một lần từ tháng thứ tư đến tháng thứ mười với tỷ lệ 2cc/ha.

Bảo tồn Telenomus dignas, một loài ký sinh trên trứng

Thả Cotesia flavipes với mật độ 2500 con cái mang thai/ha.

Kiểm soát bằng hoá chất

Các biện pháp xử lý sinh học nên được xem xét nếu có, cũng như các biện pháp phòng ngừa.

Trong mùa sinh trưởng, phun monocrotophos, một loại thuốc trừ sâu tiếp xúc, hai tuần một lần.

Nếu thiệt hại nghiêm trọng, bón 30 kg hạt carbofuran 3G vào đất.

Bướm trắng gây hại

Sự bùng phát nghiêm trọng của loài bướm trắng có thể do ngập úng và sử dụng quá nhiều nitơ. Trong mùa mưa, hạn hán và khô hạn cũng là điều kiện thuận lợi cho loài sâu hại này phát triển. Nhiều giống dễ bị sâu bệnh này hơn, có lá rộng và thân dài. Kết quả của sự phá hoại của ruồi trắng là sự phát triển của mía bị chậm lại và hàm lượng đường giảm. Năng suất mía giảm 23,4% và mất 2,9% đơn vị sucrose xảy ra khi lá bị phá hoại 80%.

Lá chuyển sang màu vàng và sau đó trở nên nhợt nhạt

Trên lá có màu tím hoặc hơi hồng và khô dần.

Các chấm đen và trắng có thể được nhìn thấy trên lá bị nhiễm khuẩn.

Nó có thể trông giống như bốc lửa trong trường hợp nghiêm trọng

Cây cho thấy sự tăng trưởng kéo dài

Phương pháp sinh học: Phân bố lại và bảo tồn các loài ký sinh Amitus minervaeEncarsia isaaci

Phương pháp hoá học

Phun fenitrothion 50 EC ở mức 2 lít/ha (1000 lít dung dịch phun)

Nên sử dụng dung dịch phun 750 lít để phun thiamethoxan 25 WG với liều lượng 125 gam/ha.

Xịt 2 gam acephate cho mỗi lít nước. Phải phun lại sau một tháng để diệt nhộng nở ra từ trứng

Dùng bình xịt cầm tay phun clopyriphos với tỷ lệ 1250 lít dung dịch phun

Rệp len mía gây hại

Các loài gây hại như rệp len có nhiều lớp phủ len màu trắng xung quanh chúng. Nhiều người nhầm nó với rệp sáp. Có một loại bột màu trắng trên mặt đất và trên lá, điều này khẳng định sự hiện diện của rệp. Nếu không được kiểm soát, nó có thể lây lan nhanh chóng và ảnh hưởng đến năng suất 20%. Rệp trưởng thành và nhộng sống ở mặt dưới của lá và ăn nhựa cây. Do háu ăn, sâu bệnh tạo ra dịch ngọt bằng cách chuyển hóa lượng đường dư thừa. Nấm mốc sẽ phát triển do tiết dịch ngọt.

Mặt dưới của lá được bao phủ bởi một số lượng lớn nhộng và trưởng thành màu trắng

Từ ngọn dọc theo mép lá có màu vàng và khô

Lá trở nên giòn và khô hoàn toàn.

Do tiết dịch ngọt quá mức nên nấm mốc phát triển.

Chất len ​​được lắng đọng trên mặt đất/đất.

Kiểm soát sinh học

Các loài săn mồi Dipha aphidivora, Micromus igorotus, Eupeodes confrater và các loài ký sinh Encarcia flavocutellum cần được bảo tồn

Nhân lên và giải phóng Dipha aphidivora và phân phối lại Encarcia flavocutellum.

Kiểm soát hoá chất

Acephate 75 SP với liều lượng 2 g/lít;

Monocrotophos 36 EC với liều lượng 2ml/ lít;

Rogor 30 EC với liều lượng 2ml/ lít.

Mối gây hại

Đất nhẹ đặc biệt nhạy cảm với vấn đề này. Trong thời kỳ trồng cây đứng, có những điểm ăn hình bán nguyệt đặc trưng ở rìa lá, nguyên nhân là do cây con nảy mầm kém (sau khi trồng). Có thể rút toàn bộ chồi ra sau khi nó khô. Bùn lấp đầy vỏ và thân cây bị gãy khi bị xáo trộn. Con trưởng thành là một loài côn trùng màu kem có đầu sẫm màu giống kiến. Các lá bên ngoài đầu tiên chuyển sang màu vàng và khô, sau đó là các lá bên trong.

Kiểm soát sinh học

Bảo tồn các loài ký sinh Epiricania melanoleuca, Parachrysocharis javensisDryinus pyrillae

Ứng dụng nấm côn trùng Hirusutella citriformis.

Kiểm soát bằng hoá chất

Chlorpyriphos 20 EC với liều lượng 5 lít/ha dưới dạng tưới lắng;

Imidacloprid với liều lượng 4 ml/10 lít nước tưới vào đất;

Clorantraniprole 18,5 SC với liều lượng 500-625 ml với 500 lít nước/ha

Hoa Lý